Ngày 22/5 hàng năm được Liên hợp quốc chọn là Ngày quốc tế Đa dạng sinh học với mục tiêu nâng cao nhận thức cộng đồng về đa dạng sinh học. Đây là dịp để phản ánh trách nhiệm của chúng ta trong việc bảo vệ di sản quý giá này cho các thế hệ tương lai.
Đa dạng sinh học – Hành trình duy trì sự sống.
Như chúng ta đã biết, Đa dạng sinh học là bao gồm nhiều dạng và cá thể của các loài cùng với những biến dị di truyền của thế giới sinh vật, cũng như nhiều dạng của các cấp độ tổ chức sinh giới nhất là dưới dạng hệ sinh thái ở mọi môi trường trái đất
Trong đó các giá trị lợi ích của đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng và tính khác biệt của những loài sinh vật sống bao gồm cả những phức hệ sinh thái được tồn tại trong đó
Nước ta sở hữu nhiều loại rừng nguyên sinh và ngập mặn phong phú, tuy nhiên dưới những biến đổi xấu về mặt khí hậu thời tiết cũng như áp lực đô thị hóa và gia tăng dân số, nhiều khu rừng đã mất đi sự đa dạng chủng loại và giống nòi, từ đó dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ ở các thời điểm hiện tại và báo động nguy cấp trong tương lai.
Đối mặt với nạn săn bắn trái phép cũng chính là nguyên nhân chính giải đáp cho câu hỏi mất đa dạng sinh học là gì ở Việt Nam nguồn tài nguyên sinh vật và động vật hoang dã cũng đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng hoàn toàn. Nguồn gen của những loài thú quý hiếm này cũng đang dần bị thất thoát và mai một.
Hệ sinh thái biển ở Việt Nam có sức chịu tải cao và khả năng tái tạo là tương đối lớn, tuy vậy sinh thái biển dù có phong phú cũng đang đứng trước nguy cơ bị giảm sút do tranh chấp lãnh thổ và những nguyên nhân khách quan trong biến đổi khí hậu và thiên tai.
Từ những diễn biến chung về thực trạng suy giảm đa dạng sinh học trên toàn thế giới và trong lãnh thổ Việt Nam. Vậy nguyên nhân gì khiến cho đa dạng thực vật ở Việt Nam bị giảm sút cũng như ở thế giới?
Đầu tiên phải nói đến . Nơi sinh cư dần trở nên thiếu hụt và suy giảm chủ yếu là do những hoạt động của con người chính là nguyên nhân mất đi sự đa dạng động thực vật và gây nên những yếu tố tự nhiên, trong đó các hoạt động của con người có thể kể đến như chuyển đổi đất sử dụng, đốt rừng làm rẫy hay khai thác thủy hải sản quá mức với xu hướng gia tăng từ đó cũng bùng phát dịch bệnh hay động đất và cả cháy rừng tự nhiên.
Mặc dù Việt Nam ta sở hữu nguồn đa dạng sinh học ở mức cao nhưng chính bởi những hoạt động khai thác quá mức được xem là nguyên nhân sự cạn kiện đặc biệt là đối với những tài nguyên thủy hải sản ven bờ, bên cạnh đó có tồn tại một số phương pháp khai thác và tận thu mang tính hủy diệt gây ảnh hưởng đến giống nòi của các loài sinh vật như nổ mìn hay sử dụng hóa chất.
Nhiều nơi bị ô nhiễm và ảnh hưởng trực tiếp bởi khí thải công nghiệp, chính điều này vô hình chung làm ảnh hưởng đến môi trường sống của những sinh vật động vật, đặc biệt là với những chất thải đô thị.
Mặt khác điểm đáng chú ý hơn cả chính là ô nhiễm dầu lại xảy ra tập trung chủ yếu ở các vùng nước cửa sông ven bờ hay những hoạt động tàu thuyền lớn. Từ đó cũng là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm sinh học ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn gen bản địa và nơi sinh sống của các loài sinh vật bao gồm thực vật và động vật.
Đa dạng sinh học – Nhận thức đúng, hành động đúng.
Chúng ta phải thực hiện các giải của chúng ta sẵn có ở thiên nhiên như sau:
Trước hết , phải xây dựng những khu bảo tồn sinh học góp phần duy trì và gìn giữ những quá trình sinh thái, việc thành lập những khu bảo tồn hệ sinh thái cũng là những bước đi đầu tiên cần thiết nếu muốn kiểm soát và duy trì hiệu quả các giống nòi sinh thái, tuy nhiên khó khăn chính là nằm ở mặt kinh phí và nếu không được thực hiện hay lên mô hình nghiên cứu một cách tỉ mỉ cũng không thể thực hiện đúng chức năng như chúng ta mong muốn.Ngoài ra việc xây dựng các hệ thống khu quốc gia bảo tồn là việc làm cần thiết nhưng cần có những hoạch định cụ thể.
Chúng ta cần có giới hạn phân chia cụ thể để phân chia khu vực thành thị nông thôn để không làm ảnh hưởng xấu từ khí thải hay khói bụi của đô thị đến với môi trường tự nhiên, từ đó chúng ta cũng có thể dễ dàng hơn trong việc xác định khoanh vùng cần bảo vệ đa dạng sinh học là gì.
Chú trọng với những cây con biến đổi gen cần lập bảng theo dõi chu trình tiến triển của chúng hay nhân giống theo biện pháp, và không chỉ đối với những loài thực vật, động vật cũng cần được áp dụng quy trình kiếm soát chặt chẽ sát sao và tương tự. Cần lập danh sách và phân nhóm để có những hoạt động cụ thể trong quá trình phân nhóm theo mức độ khác nhau, đặc biệt là với những loài đang có nguy cơ đi đến bờ đe dọa bị tuyệt chủng.
Việc phát triển đa dạng sinh học cũng cần song song với du lịch và quản lý môi trường bao gồm tổ chức các hoạt động du lịch gần gũi tự nhiên và nói không với săn bắn đồng thời các hoạt động bổ ích như loại bỏ rác thải ở các vùng bồ biển nhằm đem đến hệ sinh thái tươi xanh và phong phú trong thời điểm hiện tại cũng như tương lai.
Để đa dạng môi trường thực vật và động vật cần tăng cường trồng rừng có quy mô trên nhiều diện tích đất cải tạo, ngoài ra cần nghiêm trị những tội phạm có hành vi chặt phá rừng trái phép, tăng cường mạng lưới bảo vệ rừng có hệ thống từ cấp trung ương đến cấp địa phương.
Chúng ta cần có những cách tiếp cận hệ sinh thái kết hợp với việc quản lý đa dạng sinh học, tuy nhiên ở Việt Nam việc tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý đa dạng sinh học còn là một bài toán khá mới mẻ cần có áp dụng với một số địa phương những môi trường sinh thái cụ thể như vườn quốc gia U Minh Hạ hay Cầu Hai, Phá Tam Giang, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ.
Đồng thởi cách tiếp cận này cũng giúp mở rộng quy mô bảo tồn khỏi những vùng lõi đá bị đóng khuôn qua nhiều năm, kết hợp với việc làm cần thiết là trồng hành lang xanh.
Hành động vì thiên nhiên – Trách nhiệm của chúng ta.
Như vậy việc bảo vệ đa dạng sinh học là việc làm cấp thiết mà mỗi vùng quốc gia lãnh thổ nên có những biện pháp để phát triển, bên cạnh đó việc thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên cũng là điều kiện cần và đủ để việc nâng cao quản lý nguồn tài nguyên đa dạng sinh học được phát triển tốt nhất!./.
Nhóm Sinh -Bài viết tuyên tuyền- Hưởng ứng Ngày Nước thế giới và Ngày khí tượng thế giới năm 2020